Công tác lý luận luôn đóng vai trò hết sức quan trọng đối với một đảng cách mạng, ngay cả khi đảng đó đã trở thành một đảng lãnh đạo, cầm quyền. Ngay từ những dòng đầu tiên trên trang bìa của tác phẩm Đường Kách mệnh, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ghi rõ luận điểm của V.I. Lênin: “Không có lý luận cách mệnh, thì không có cách mệnh vận động… Chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiền phong”. Hành trình ra đi tìm đường cứu nước của Người cách đây gần 115 năm là hành trình đến với lý luận khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin; và từ đây, Người đã sáng suốt khai sinh ra nền lý luận cách mạng Việt Nam, đặt nền móng vững chắc cho những thành tựu vĩ đại của Đảng và dân tộc.
Nhìn lại 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, trong đó có hơn 20 năm thực hiện Nghị quyết số 01-NQ/TW năm 1992 của Bộ Chính trị khóa VII và nhất là sau hơn 10 năm thực hiện Nghị quyết số 37-NQ/TW năm 2014 của Bộ Chính trị khóa XI, công tác lý luận của Đảng đã phát huy trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, xây dựng nên một nền lý luận đặc sắc Việt Nam, làm cơ sở cho những chủ trương, quyết sách hết sức quan trọng của Đảng trong tiến trình đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước.
Điểm khởi đầu của tiến trình đổi mới chính là sự đổi mới về tư duy, trước hết là tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Ngay vào thời điểm vô cùng khó khăn trước sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu, công tác lý luận đã cung cấp luận cứ khoa học chắc chắn để khẳng định rằng: đây không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội nói chung, càng không phải là sự sụp đổ của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà chỉ là sự sụp đổ của một mô hình chủ nghĩa xã hội giáo điều, xa dân, xa rời những thay đổi thường xuyên của thực tiễn; dù có nhiều khó khăn và những khúc quanh phức tạp, theo quy luật tiến hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội1
Cần nhấn mạnh, đổi mới là cả một sự nghiệp sáng tạo lý luận mang tầm vóc lịch sử, có tính chất đột phá và ý nghĩa cực kỳ to lớn. Đổi mới tư duy lý luận đã đi trước một bước, luận chứng nội dung, phương hướng, định hướng chiến lược cho các chủ trương, chính sách mới trên mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị... Từ thực tiễn của công cuộc đổi mới, kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, công tác lý luận đã góp phần quan trọng xây dựng Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) năm 2011; không ngừng bổ sung, hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, làm sáng tỏ hơn mô hình chủ nghĩa xã hội của Việt Nam, do người Việt Nam thực hiện, mang các đặc trưng, phương hướng vừa thể hiện giá trị, bản sắc và khát vọng phát triển Việt Nam, vừa mang những giá trị phổ quát, tiến bộ của nhân loại; với ba trụ cột: kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng; và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; tiếp tục bổ sung, phát triển các mối quan hệ lớn phản ánh những vấn đề mang tính quy luật biện chứng cần được xử lý tốt trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Nhấn mạnh điều này để thấy được ý nghĩa cực kỳ to lớn của việc Đảng ta đã từng bước xây dựng, hình thành lý luận về đường lối đổi mới sâu sắc, toàn diện về những vấn đề then chốt của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới, như được thể hiện trong dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng và được Trung ương thống nhất coi là một cấu phần quan trọng trong nền tảng tư tưởng của Đảng cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Cùng với việc đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, nâng tầm khoa học lý luận chính trị sánh ngang với khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn, trong những năm qua, Đảng ta đã đặc biệt chú trọng xây dựng tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ nghiên cứu lý luận chính trị đáp ứng yêu cầu mới; đẩy mạnh đổi mới toàn diện công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị; xây dựng, kiện toàn hệ thống các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhất là hệ thống trường Đảng trong cả nước bảo đảm tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả; phát triển mạng lưới các cơ quan nghiên cứu lý luận trong hệ thống chính trị; đặc biệt, phát huy vai trò hết sức quan trọng của Hội đồng Lý luận Trung ương đóng góp vào sự nghiệp phát triển lý luận của Đảng, xứng tầm là cơ quan tư vấn cho Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; nghiên cứu, tổng kết và giải đáp những vấn đề lý luận - thực tiễn mới; là hạt nhân kết nối, huy động trí tuệ của các nhà lý luận, các chuyên gia trong nước và quốc tế.
Bên cạnh những thành tựu rất to lớn đã đạt được, cũng cần thẳng thắn thừa nhận rằng, công tác lý luận của Đảng vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Một số vấn đề mà Nghị quyết 37-NQ/TW đã chỉ ra đến nay vẫn còn tồn tại, như: kết quả nghiên cứu lý luận chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của thực tiễn. Văn kiện Đại hội XIII cũng thẳng thắn nêu: “Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa được quan tâm đúng mức, thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng yêu cầu; một số vấn đề mới, khó, phức tạp chưa được làm sáng tỏ”. Đặc biệt, đồng chí cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã một số lần yêu cầu: “Lý luận phải vươn lên dẫn đường và đồng hành với thực tiễn”, “phải có tầm nhìn vượt trước”.
Tổng kết những thành tựu và hạn chế sau hơn 10 năm thực hiện Nghị quyết số 37-NQ/TW, chúng ta rút ra ba bài học kinh nghiệm sau:
Thứ nhất, nắm chắc mục tiêu, nhiệm vụ của công tác lý luận là cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định, triển khai các chủ trương, đường lối, quyết sách chiến lược của Đảng, phục vụ công cuộc đổi mới, xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ hai, xử lý hài hòa mối quan hệ giữa kiên định và đổi mới; giữa kế thừa và phát triển; kết hợp nhuần nhuyễn giữa nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn với hoạch định, triển khai đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Thứ ba, tạo môi trường nghiên cứu dân chủ, khuyến khích đổi mới sáng tạo, phát huy trí tuệ của đội ngũ các nhà nghiên cứu lý luận, các nhà hoạch định chính sách; mở rộng hợp tác quốc tế, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa tri thức nhân loại phục vụ lợi ích quốc gia, dân tộc.
Trong bài viết nhân kỷ niệm 95 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh: “Nền tảng lý luận vững chắc là kim chỉ nam cho hành động của Đảng, quyết định sự đúng đắn trong đường lối lãnh đạo và chiến lược phát triển đất nước2. Điều đó cho thấy sự quan tâm sâu sắc và kỳ vọng to lớn của người đứng đầu Đảng ta đối với công tác lý luận của Đảng trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.
Quán triệt sâu sắc tinh thần chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư, cần nhận thức đầy đủ, toàn diện, sâu sắc công tác lý luận của Đảng từ nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn gắn với hoạch định chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước đến công tác giảng dạy, đào tạo, bồi dưỡng và tuyên truyền lý luận chính trị; công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trên mặt trận tư tưởng, lý luận; phát triển đội ngũ và xây dựng tổ chức bộ máy làm công tác lý luận.
Cần thấy rõ, nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn là cơ sở quan trọng để củng cố, bổ sung và hoàn thiện nền tảng tư tưởng của Đảng, định hướng cho việc đổi mới, hoàn thiện phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; bảo đảm Đảng luôn đổi mới tư duy, linh hoạt, sáng tạo trong đề ra các quyết sách, tránh rơi vào bảo thủ, trì trệ, hoặc xa rời thực tiễn. Thông qua giáo dục và bồi dưỡng về lý luận chính trị, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng được trang bị tư duy biện chứng sắc bén, bản lĩnh chính trị vững vàng, năng lực giải quyết hiệu quả các tình huống thực tiễn; chủ động bảo vệ nền tảng tư tưởng, các chủ trương, đường lối của Đảng, đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, thù địch, ngăn chặn nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng.
Với tinh thần đó, tại Hội thảo hôm nay, đề nghị các đồng chí đánh giá, làm rõ hơn những thành tựu cũng như những hạn chế trong công tác lý luận trong thời gian qua, rút ra những bài học kinh nghiệm, xác định những nhiệm vụ trong giai đoạn mới, đặc biệt là những nhiệm vụ trọng tâm về nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn tiếp tục bổ sung, phát triển nền “lý luận cách mạng Việt Nam”, cung cấp luận cứ cho việc hoạch định, triển khai những quyết sách chiến lược, mang tính cách mạng của Đảng:
(1) Nghiên cứu, tổng kết những vấn đề lý luận, thực tiễn, những bài học kinh nghiệm lịch sử qua 100 năm Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam; tổng kết 40 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), hình thành hệ luận cứ toàn diện phục vụ cho việc xây dựng Cương lĩnh xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Trong năm 2025, cần hoàn thành các nghiên cứu tổng kết 40 năm đổi mới, 50 năm đất nước thống nhất, 80 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà; tiếp tục đóng góp tích cực vào việc xây dựng dự thảo văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng.
(2) Bổ sung, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam. Làm sâu sắc hơn các trụ cột, đặc trưng của mô hình chủ nghĩa xã hội, phương hướng xây dựng chủ nghĩa xã hội và việc giải quyết các mối quan hệ lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Quan tâm tổng kết những mô hình địa phương xã hội chủ nghĩa, văn hoá xã hội chủ nghĩa, con người xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục nghiên cứu sự vận dụng và bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lý luận về đường lối đổi mới, không ngừng hoàn thiện nền tảng tư tưởng của Đảng.
(3) Nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn nhằm xác lập “mô hình phát triển Việt Nam” có bản sắc riêng, với những đặc trưng nổi bật: phát triển nhanh, bao trùm và bền vững, lấy con người làm trung tâm, vận hành trên nguyên tắc: “phát triển để ổn định, ổn định để phát triển”, phát huy sức mạnh của nhân dân và khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đặt dưới sự lãnh đạo toàn diện của Đảng.
(4) Kịp thời nắm bắt, phân tích, dự báo những vấn đề mới của thế giới ngày nay, nhất là những chuyển đổi mang tính thời đại; những xu thế lớn của thế giới trong nửa đầu thế kỷ XXI; sự vận động đa chiều của cục diện toàn cầu; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn và khả năng định hình một trật tự thế giới mới; mô hình xã hội tương lai cùng những biến đổi văn hóa - xã hội sâu rộng, những thay đổi của nền văn minh nhân loại; sự khủng hoảng của các giá trị, các mô hình phát triển truyền thống của phương Tây và rút ra các bài học kinh nghiệm. Nghiên cứu, chắt lọc các học thuyết, các tư tưởng phát triển hiện đại, làm sáng tỏ các giá trị, tinh hoa phát triển của phương Đông. Nghiên cứu, tổng kết nhận thức của thế giới về chủ nghĩa xã hội hiện thực thế kỷ XXI cùng các mô hình chủ nghĩa xã hội tiêu biểu trên thế giới.
(5) Củng cố nền tảng lý luận cho những tư duy đột phá và chuyển đổi phát triển mang tính cách mạng trong kỷ nguyên mới. Làm rõ nội hàm, điều kiện và phương thức xây dựng lực lượng sản xuất mới cung cấp luận cứ cho việc triển khai các đột phá về khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi xanh, chuyển đổi số, xác lập mô hình tăng trưởng mới, thực hiện mục tiêu tăng trưởng hai con số… Hoàn thiện lý luận về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở trình độ cao, trọng tâm là xây dựng những thể chế đột phá, vượt trội để giải phóng mọi nguồn lực, tiềm năng phát triển; giải quyết tốt mối quan hệ giữa các khu vực kinh tế, bảo đảm kinh tế nhà nước thật sự đóng vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân thật sự là động lực quan trọng nhất của nền kinh tế. Nghiên cứu, tổng kết những vấn đề lý luận, thực tiễn mới về văn hoá, con người Việt Nam, phát huy tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tin, ý chí tự chủ, tự lực, tự cường, cùng khát vọng sáng tạo và cống hiến của mỗi người dân Việt Nam. Hình thành lý luận toàn diện về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị Việt Nam, khẳng định vai trò đặc biệt quan trọng của xây dựng Đảng là “đạo đức, văn minh”, không ngừng tự đổi mới. Tiếp tục hoàn thiện mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kết hợp những giá trị phổ quát của thế giới và những giá trị đặc thù của Việt Nam; chuyển mạnh từ tư duy quản lý sang quản trị, kiến tạo phát triển, phục vụ người dân và doanh nghiệp. Bổ sung, hoàn thiện hệ lý luận về bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia và đẩy mạnh đối ngoại, hội nhập quốc tế trong tình hình mới.
Chú thích:
1 Xem: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) năm 2011.
2 Tổng Bí thư Tô Lâm: Rạng rỡ Việt Nam, https://www.qdnd.vn/, ngày 2-2-2025.