TỪ SỰ THẬT LỊCH SỬ BƯỚC VÀO NGHỆ THUẬT

Bài viết phân tích, làm rõ sự thật lịch sử và sự thật nghệ thuật, mối quan hệ giữa sự thật đời sống lịch sử với sự thật trong nghệ thuật. Qua việc phân tích trường hợp ''Chiến tranh và hoà bình'' để làm rõ quá trình từ sự thật lịch sử bước vào văn học, nghệ thuật và yêu cầu chân lý lịch sử và chân lý nghệ thuật hòa đồng, cùng hướng về cái thiện, cái đẹp.

   "Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. Đây là lời dặn dò đầy nghĩa tình thân thiết mà thiêng liêng của Bác Hồ tại Đền Hùng trước các chiến sĩ quân đội Sư đoàn 308 sau chiến thắng Điện Biên Phủ trên đường về tiếp quản thủ đô Thăng Long - Hà Nội (1954). Đúng là lịch sử của dân tộc Việt Nam ta đã trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước vô cùng oanh liệt vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.

   Tuy thế, về mặt văn hóa, nghệ thuật, chúng ta chưa có được “các tác phẩm hay” đáp ứng mong muốn của nhân dân và xứng đáng với quá trình lịch sử vẻ vang của toàn dân. Chính vì thế, ngay cả giới văn nghệ cũng từng nêu lên nhiều câu hỏi băn khoăn mà chưa có lời giải đáp hoàn hảo!? Thực chất lĩnh vực này vừa phong phú vừa phức tạp bởi nó không chỉ giới hạn trong văn học, nghệ thuật mà còn gắn liền với đời sống và văn hóa...

   Vào nửa đầu thế kỷ XIX, trong khi luận bàn về ý nghĩa mĩ học của các trường ca lịch sử và truyện lịch sử, nhà lý luận mĩ học Nga nổi tiếng Belinsky từng nêu lên một nguyên lý: “Chúng ta chất vấn quá khứ, bắt nó giải thích hiện tại, và dự đoán tương lai của chúng ta”1. Có thể diễn đạt rộng thêm là, khi “sự thật đời sống lịch sử” bước vào nghệ thuật thì làm thế nào để vươn tới được tầm cao “chân - thiện - mĩ”?

   Lịch sử trong ý nghĩa này làm nhiệm vụ phản ánh sự thật khách quan, phản ánh đời sống xã hội đã và đang tồn tại cuộn chảy trước mắt. Còn “quá khứ” được xem là quá trình xã hội đã xảy ra trong dĩ vãng, và “hiện tại” được xem là các sự kiện xã hội đang diễn tiến. Quá khứ và hiện tại có quan hệ mật thiết với nhau, phản ánh khuynh hướng phát triển và là nội dung của quá trình xã hội…

   Có nhà văn từng viết tiểu thuyết lịch sử ở nước ta nêu ý kiến là muốn viết được tiểu thuyết về lịch sử thì phải từng trải, chiêm nghiệm sau nửa thế kỷ nhìn lại quá khứ. Thật ra không cần phải có độ lùi dài đến vậy! Để sáng tỏ hơn, chúng ta cần tham khảo ý kiến của V.I. Lenin, rằng: “Cái gì đang diễn ra trước mắt chúng ta với tốc độ ngày càng to lớn cũng là lịch sử”2. Ở thời nước Nga Xô viết, cuốn tiểu thuyết lịch sử Con đường đau khổ (1919-1941) của Alecxei Tolstoy (1893-1945), trong đó có tập II với tên Năm 1918 viết từ 1927-1929; còn tiểu thuyết Sông Đông êm đềm của Solokhov (1905-1985) được viết từ 1925-1940 và Truyện ký sự lịch sử Sapaev (1923) của Furmanov đã ra mắt trong khi tiếng súng nội chiến Nga (1918-1921) còn âm ỉ chưa dứt. Đương thời, giới văn nghệ coi đó là “lịch sử đang còn bốc khói”.

   Từ địa hạt sự thật đời sống chuyển sang lĩnh vực sự thật nghệ thuật là một khoảng cách khá rộng lớn, quanh co và phong phú, luôn gắn kết chặt chẽ với thế giới quan, với điểm nhìn và tài năng sáng tạo của người nghệ sĩ. Hơn nữa, bản thân người nghệ sĩ cần tự trang bị cho mình một vốn kiến thức sâu rộng về văn hóa phù hợp với quy luật nội tại của nghệ thuật. Chẳng thế mà nhà lý luận Belinsky từng viết: “Tiểu thuyết lịch sử như là một điểm, mà trong đó lịch sử với tư cách là một khoa học đã kết hợp với nghệ thuật”... Ngày nay, chúng ta có thể lấy bộ tiểu thuyết anh hùng ca Chiến tranh và hòa bình (1864-1869) của đại văn hào Lev Tolstoy – tác phẩm được xếp loại siêu đẳng trong nền nghệ thuật cổ điển toàn nhân loại để mong có thể rút ra những kinh nghiệm bổ ích về nội dung phản ánh sự thật cùng nghệ thuật thể hiện qua muôn hình nghìn vẻ...

   Đặt bút viết tác phẩm Chiến tranh và hòa bình, tác giả không nhằm mục đích tôn vinh, ngợi ca chiến công trong lịch sử quá khứ của dân tộc Nga mà điều chủ yếu là nhà văn muốn góp phần giải đáp câu đố quan trọng của xã hội nước Nga đương thời. Bởi lẽ sau cuộc “Cải cách hủy bỏ chế độ nông nô” (19/2/1861), nước Nga đang đứng trước ngã ba đường, chưa thể xác định được phương hướng đi theo con đường nào? Số phận nông dân và vận mệnh Tổ quốc Nga sẽ ra sao? Câu hỏi đặt ra là đất nước tiến lên theo chủ nghĩa dân chủ tư sản phương Tây hay trở lại thời phong kiến quân chủ nông nô, hay trở về nước Nga cổ đại trước thế kỷ XVIII tức là trước thời vua Piot đệ nhất (từ 1818)? Đương thời, những ý tưởng lớn lao ấy là câu hỏi cháy bỏng của bao nhà hoạt động chính trị - xã hội cùng nhiều văn nghệ sĩ đã nêu ra...

   Còn Tolstoy cho rằng, lời giải đáp nằm trong “tính cách Nga” mà cuộc chiến tranh vĩ đại của nhân dân kỳ diệu đã minh chứng hùng hồn đầy thuyết phục qua sự thật lịch sử. Đấy là chân lý đời sống – điểm tựa của chân lý nghệ thuật mà tác giả bắt đầu viết bộ tiểu thuyết trường thiên kéo dài từ 1864 đến 1869, tuy trước đó vào năm 1860, ở tuổi 36, ông đã bước đầu kể chuyện cho lớp học trò bình dân tại ngôi trường chính ông lập ra để dạy cho con em nông dân trên trại ấp quê hương vào học không mất tiền. Ông từng kể về thế hệ ông cha cùng toàn dân Nga đánh tan quân xâm lược Pháp suốt ba năm liền (1812-1814)...

   Nhìn vào sự thật đời sống chính trị xã hội ở châu Âu vào nửa đầu thế kỷ XIX, từ 1805-1815, thì Kutuzov - Nguyên soái Tổng Tư lệnh quân đội Nga và Hoàng đế Napoléon – thống chế nước Pháp thuộc hai chiến tuyến đối địch qua hai cuộc chiến tranh 1805 và 1812. Nhưng khi lịch sử xâm nhập vào nghệ thuật thì hai nhân vật này lại được thể hiện qua nhiều cung bậc khác nhau hết sức rõ nét. Cụ thể là nếu bạn đã có dịp xem triển lãm qua những bức họa về Napoléon ở Bảo tàng Louvre tại Thủ đô Paris và các bức họa về Kutuzov và Napoléon ở Bảo tàng Ermitage tại Saint Peterburg (Thủ đô Nga) trước Cách mạng tháng Mười (1917) thì bạn sẽ thấy khoảng cách biểu hiện rất khác nhau giữa các họa sĩ bắt nguồn từ sự khác nhau về thế giới quan. Đặc biệt, nếu đọc tiểu thuyết Chiến tranh và hòa bình thì chắc chắn bạn sẽ cảm nhận rõ điểm nhìn của văn hào Tolstoy về Napoléon trái ngược hoàn toàn với điểm nhìn của văn hào Pháp Victor Hugo (1851-1907) trong tiểu thuyết trường thiên Những người khốn khổ (1862).

   Cần phải chú ý, khi hai nhân vật Napoléon và Kutuzov bước vào tiểu thuyết Chiến tranh và hòa bình cùng Nga hoàng Alecxan đệ nhất, sứ thần Nga Balasov, công tước Vaxili, bên con gái đẹp Elen vợ bá tước Pie, với công tước Anđrei, Natasa, Nikolai cùng anh du kích Tikhôn với toàn bộ số lượng 559 nhân vật hiện ra dưới ngòi bút tác giả thì tất cả các hình tượng ấy được xếp vào một hệ thống kết cấu và phân tích, đã được sắp đặt với “hàng triệu cách phối hợp để chọn lấy một” (L. Tolstoy) qua ngòi bút nhà văn. Ở đây, các nhân vật lịch sử cùng được sắp xếp trên bình diện ngang hàng với các nhân vật hư cấu. Thông qua hệ thống hình tượng đó, bằng tiếng nói riêng của mình, tác giả bộc lộ rõ nét quan điểm về chiến tranh, về hòa bình, về lịch sử, về quốc gia và dân tộc, về triết lý vũ trụ, về nhân sinh, về tình đồng đội, về sự sống, tình yêu và cái chết, về tôn giáo, cái thiện, cái ác, cái đẹp, cái xấu... Tác giả chịu trách nhiệm quán xuyến trước mọi vấn đề được đặt ra xuyên suốt gần hai ngàn trang tiểu thuyết và đã lý giải rành rẽ đến từng chi tiết qua hệ thống hình tượng và ngôn ngữ nghệ thuật... Ở bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ này, từ đầu chí cuối, tác giả đã thể hiện nhiều ý tưởng phong phú qua nhiều cách diễn đạt đa dạng mà sống động, khi là tranh luận, khi là cảm xúc tùy hứng, khi là đối thoại nhưng vẫn nhất quán trong điểm nhìn và phương thức truyền đạt cái chung thông qua việc miêu tả cái riêng không tách rời các trạng thái “biện chứng tâm hồn” (“dialektika dusi” – tiếng Nga) của các nhân vật qua muôn màu muôn vẻ các tình huống khác nhau.

   Thời trẻ, Tolstoy từng đọc và ngợi ca truyện kể Bộ quần áo mới của Hoàng đế của văn hào Andersen (Đan Mạch), rồi ghi vào Nhật ký rằng: “nghệ thuật phải chứng minh là ông vua này trần truồng”, mặc dù ông đã đọc Andersen từng viết qua lời chim cú già: “Sự thật đâu phải lúc nào cũng dễ chịu, nhưng sự thật là điều cao quý nhất”.

   Cũng vậy, nhà văn đã khắc họa tính chất cuộc chiến tranh 1812 với khí phách hào hùng quyết thắng của quân đội Nga trên chiến trường hòa cùng tính tự phát của đông đảo quần chúng qua hình ảnh các đội nữ du kích Nga treo bánh mì lên cây cho giặc Pháp đang đói bụng ăn bánh để bắt kẻ địch phải đầu hàng. Những cảnh tượng ấy đều là sự thật trăm phần trăm.

   L. Tolstoy từ chối phong cách ước lệ quen thuộc của hệ thống văn chương nghệ thuật lãng mạn đương thời, mạnh dạn khảo sát thực địa chiến trường Bôrôđinô sau nửa thế kỷ đã trôi qua. Ông đã đến tận các hầm hào, ụ pháo, vẽ tả đủ các chi tiết bản đồ chiến sự của quân Nga và quân Pháp đạt tới mức chi tiết rõ ràng từng điểm khiến cho các tướng lĩnh thời Xô viết hiện đại đều đánh giá văn hào Tolstoy am hiểu tường tận chiến trường như các sĩ quan tham mưu. Chẳng thế mà khi rời Bôrôđinô (cách Moskva 80km) vào buổi chiều ngồi trên xe ngựa về nhà, Tolstoy đã tâm sự với cậu em trai vợ 12 tuổi đi cùng rằng: “Các sử gia miêu tả không đúng và hời hợt, mà lẽ ra muốn hiểu thì phải đoán biết được cơ cấu bên trong của cuộc sống…”3. Cơ cấu bên trong ấy chính là “tính cách Nga”, là ý thức và sức mạnh truyền thống độc lập, tự cường của dân tộc Nga, gắn kết trong lý tưởng chính nghĩa cao cả hòa vào cái thiện đẹp đẽ của nhân dân dẫn đến thắng lợi hoàn toàn trước mưu đồ bành trướng bá chủ châu Âu của Hoàng đế Napoléon. Đấy là hạt nhân cơ bản của sự thật đời sống lịch sử, còn các biến cố, các sự kiện đã xảy ra có thể chưa bộc lộ đầy đủ bản chất tính cách của con người Nga. Đó chính là chân lý lịch sử và vừa là chân lý nghệ thuật không thể xóa nhòa. Chẳng phải có một số nhà sử học và tướng lĩnh Pháp ngụy biện rằng “Thống soái Napoléon thất bại trước “Nguyên soái mùa Đông nước Nga, chứ đâu phải thua Nguyên soái Kutuzov?!”. Thật chẳng khác gì sau thế chiến II (1941-1945), không ít nhà viết sử phương Tây cũng ngụy biện theo lập luận của vết xe đổ rằng: “Thống chế Hitler thất bại vì “mùa Đông nước Nga lạnh quá”!?; Báo chí phương Tây đương thời từng viết, Hồng quân Nga phải mang theo chiếc đèn cồn để hơ nóng tay lúc bóp cò súng. Trong hiện thực có thể như thế nhưng toàn bộ biến cố lịch sử long trời lở đất ấy xảy ra trên các trận địa châu Âu kéo dài từ năm 1939-1945 lại không phải như vậy! Theo lịch sử chính thống của Nhà nước Nga Xô viết, tại chiến dịch Stalingrad (Volgagrad) vào mùa Đông năm 1941 là ác liệt nhất, quân đội Nga đã chiến thắng quân phát xít Hitler và bắt được 30.000 (ba vạn) tù binh Đức. Thế là sau chiến thắng lịch sử đó, Hồng quân Nga tấn công vũ bão vào quân Đức trên khắp các chiến trường của các nước Đông Âu và dồn dập tiến quân vào cắm cờ đại thắng tại Thủ đô Berlin vào ngày 9 tháng 5 năm 1945.

   Trở lại với lĩnh vực văn nghệ, sau khi tiểu thuyết Chiến tranh và hòa bình xuất hiện, nhà văn hiện thực Pháp nổi tiếng P. Merimée (1803-1870), trong khi trò chuyện với các nhà văn Nga, đã nêu nhận xét thú vị: “Đối với các anh… trước hết phải là Sự thật, còn cái Đẹp thì như là kết quả của sự thật ấy”.

   Trong Chiến tranh và hòa bình, yếu tố sự thật xác định và yếu tố hư cấu không xác định đan xen lẫn nhau đến mức khó lòng phân biệt, nếu người đọc không chú ý. Chẳng hạn, sáng ngày 25/8/1812, trước chiến dịch Bôrôđinô một hôm, Napoléon tắm vào sáng sớm trước khi đi kiểm tra chiến trường. Ngày mở chiến dịch theo kế hoạch đúng ngày 26/8/1812 là sự thật lịch sử xác định; còn cảnh tắm táp ngoài mặt trận ai mà biết được thực hư ra sao? Nhưng ở trường đoạn này, ngòi bút tác giả tưởng tượng qua nét chấm phá hài hước nhằm hạ bệ thần tượng “vị anh hùng cá nhân” đang lẫy lừng tiếng tăm. Cảnh tắm đích thực nơi đây lồ lộ con người bằng xương, bằng thịt, đầy ắp trạng thái nhục cảm và tham vọng, nào đâu phải “vị thần chiến tranh”, đâu phải “vĩ nhân”, đâu phải “một hoàng đế hoàn toàn” đáng được ngưỡng mộ, sùng bái như văn hào Pháp Victor Hugo ngợi ca trong tiểu huyết Những người khốn khổ (1862). Không đâu, Napoléon cũng trần trụi tầm thường đầy dục vọng bản năng như mọi người, chắc chắn “Ngài” sẽ thất bại như bao con người khác bởi quy luật nhân quả hiển hiện như chính ngài đang bắn giết, gieo rắc muôn vàn tai họa chết chóc trái với lương tâm của nhân loại, trái với chính nghĩa, với cái thiện mà Chúa Trời hằng kêu gọi.

   Ở đây chân lý lịch sử và chân lý nghệ thuật hòa đồng, cùng hướng về cái thiện, cái đẹp, bởi điều giản dị là loài người trên hành tinh này chẳng một ai muốn chém giết lẫn nhau để máu chảy thành sông ra biển cả!?

   Hãy quan sát trường đoạn “phòng tắm” sau đây để hiểu rõ bản chất đích thực con người này: “Ông ta thở phì phì và ho khe khẽ, khi thì giơ cái lưng béo mập, khi thì ưỡn cái ngực đẫy đà và lông lá ra cho người hầu phòng lấy bàn chải chà xát. Một người hầu phòng khác lấy ngón tay bịt miệng lọ rẩy nước hoa lên cái thân hình trau chuốt của hoàng đế… Mớ tóc ngắn của Napoléon ướt đẫm và dính bết lên trán. Nhưng bộ mặt của ông, tuy béo phì, vàng bủng và biểu lộ sự thỏa mãn về thể xác: “Cứ xát mạnh vào, cứ xát nữa đi!”4. Đây là một thủ pháp nghệ thuật cá thể hóa, với ý đồ hạ bệ con người trần trụi này đang chăm chút thỏa mãn thể xác trong tâm địa tàn nhẫn của kẻ thích máu me chết chóc, cho nên khi đang được kỳ cọ, trau chuốt trong phòng tắm, “Napoléon vẫn không ngẩng đầu lên, cau mày gườm viên sĩ quan phụ tá” vào báo cáo về số lượng tù binh đã bắt được trong trận chiến đấu hôm qua: “Không bắt làm tù binh! - chúng cố tình nộp mạng. - Napoléon nói. Cứ xát, xát mạnh vào. - Ông vừa nói vừa cong lưng lại và giơ đôi vai béo mập ra”5. Khung cảnh phòng tắm nhỏ bé nơi chiến trường này không tách rời mà tương phản với bối cảnh lịch sử hoành tráng của cuộc chiến tranh xâm lược vô nghĩa bùng nổ vang động cả bầu trời châu Âu: “Từ cuối năm 1811 bắt đầu một cuộc tập trung lực lượng và vũ trang ráo riết ở các nước Tây Âu và đến năm 1812 thì các lực lượng ấy gồm hàng mấy triệu người từ phương Tây lên đường tiến về phương Đông, về phía biên giới nước Nga và cuộc chiến tranh đã bùng nổ. Hàng mấy triệu con người đã hãm hại nhau bằng vô số những tội ác, mà các tập niên san của tất cả các tòa án trong thiên hạ dù có góp nhặt trong mấy thế kỷ liền cũng không sao bì kịp, nhưng đương thời thì những kẻ can phạm vẫn không coi đó là tội ác”6.

   Bức tranh vĩ mô xen lẫn những cảnh vi mô là phương thức sáng tạo nghệ thuật tương phản của tiểu thuyết mà Chiến tranh và hòa bình đứng ở tầm cao nhất của toàn nhân loại suốt 200 năm qua, từng nêu lên một sự thật đời sống vừa là sự thật nghệ thuật, đồng thời cũng là chân lý lịch sử được cô đúc trong ý tưởng chủ đề cơ bản của tác phẩm: “Nhân dân Nga kỳ diệu vô song”, “bởi mục đích nhân dân Nga chỉ có một: giải phóng đất nước khỏi cuộc xâm lăng”7. “Sức mạnh của nước Nga là ở trong nhân dân Nga”8. Chân lý lịch sử ngời sáng ấy được nhà văn khắc họa cụ thể: “Việc một đạo quân 50 vạn người bị tiêu diệt, việc đế chế Pháp cáo chung chính tại chiến trường Bôrôđinô – lần đầu tiên đế chế ấy đã chịu cái đòn nặng nề của một cánh tay khỏe hơn nó về mặt tinh thần”9. Đúng vậy, khi nhà văn Tolstoy cầm bút viết bộ sử thi này thì năm mươi năm về trước (năm 1813), Napoléon thật sự đã phải âm thầm rút quân trong đêm tối mò theo đường Smolen chạy khỏi nước Nga, về tới Thủ đô Varsava - Ba Lan chỉ còn năm vạn tàn quân. Năm 1813 về đến Paris chỉ còn hai vạn tàn quân. Vị Hoàng đế tổng tư lệnh đại quân Pháp đã ai oán than thở rằng: “Hôm qua là một đại quân. Hôm nay là một đàn cừu… Từ sự cao cả đến sự lố bịch chỉ có một bước. Việc đó để cho hậu thế suy xét”10. Thất bại cuối cùng tại chiến trường Waterloo (18/6/1815), Napoléon bị quân đội nước Anh bắt đày trên đảo Saint Helène (thuộc nước Anh) đến cuối đời (1821), trong Hồi ký, ông đã ngậm ngùi thừa nhận: “Trong tất cả những trận đánh của tôi thì trận kinh khủng nhất là trận ở gần Moskva (Bôrôđinô). Trong trận này quân đội Nga đã xứng đáng được xem là không thể đánh bại được!”.

   Trong phạm vi tác phẩm cổ điển này, sự thật lịch sử được tái hiện sinh động, đa dạng theo quy luật nội tại của hiện thực nghệ thuật. Tiểu thuyết Chiến tranh và hòa bình phản ánh cụ thể, chân thực, chi tiết và hoàn chỉnh cuộc chiến ngoài mặt trận gắn kết với đời sống hậu phương của nhân dân Nga. Đúng là tình huống (situation) chiến tranh và hòa bình đã cuốn hút trái tim và khối óc tất cả các tầng lớp, từ vị hoàng đế Nga đến người thường dân, vào tận phòng ngủ, bếp núc đang yên bình của mọi gia đình, mọi thành phần từ nông dân đến đại quý tộc... Biết bao số phận già, trẻ, trai, gái trên khắp nước Nga và châu Âu đã bước vào tiểu thuyết theo một hệ thống kết cấu chặt chẽ, tạo thành một bức tranh hoành tráng muôn màu mà trước đó chưa hề xuất hiện. Chính vì thế, tiểu thuyết Chiến tranh và hòa bình được đông đảo văn nghệ sĩ Đông, Tây cùng bạn đọc khắp nơi đánh giá là “đỉnh núi Himalaya của nghệ thuật nhân loại” và là một trong 10 tác phẩm hay nhất bên cạnh tiểu thuyết Anna Karenina (cũng của L. Tolstoy) được xếp vào bậc nhất, do hãng sách lớn tại Mĩ tổ chức trưng cầu ý kiến của 125 tiểu thuyết gia trên thế giới bình chọn cuối năm 1999 để bước sang thế kỷ XXI...

   Có thể khẳng định những trang tiểu thuyết Chiến tranh và hòa bình đích thực là những bài học kinh nghiệm vô giá đối với tất cả những ai muốn sáng tác về các biến cố lịch sử trọng đại... Suốt quá trình sáng tác, với điểm nhìn hiện thực khách quan, kể từ lúc Tolstoy đang là một trung úy pháo binh trên bán đảo Crưm (1855) vừa cầm bút vừa cầm súng đánh trả quân xâm lược Anh cùng Pháp đang tấn công vào quân cảng Sevastopol, rõ ràng mở đầu từ nơi đây cho đến cuối đời, nhà văn vẫn chung thủy với nguyên lý sáng tác mà ông từng khẳng định: “Nhân vật chính trong truyện của tôi mà tôi mến yêu với tất cả sức mạnh tâm hồn, mà tôi đã cố gắng tái hiện với tất cả vẻ đẹp của nó và nó luôn luôn đã, đang và mãi mãi sẽ là đẹp, đó là sự thật”11.

   Cũng trên đất nước Nga, văn hào Turghenev (1818-1883) cùng thời với L. Tolstoy từng khẳng định: “Tiểu thuyết là lịch sử cuộc sống”. Gần đây nhất, đúng vào ngày khai mạc Liên hoan phim tại Đà Lạt (21/11/2023), đài truyền hình đưa tin một vị đạo diễn hùng hồn nói rằng sẽ viết về các danh nhân lịch sử Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Quang Trung... Thật đáng ngạc nhiên! Quả là đồ sộ quá! Không hiểu vị đạo diễn ấy nói đùa hay nói thật, vì các thế hệ ông cha ta từ xưa đến nay chưa ai làm được?!

   Xin mời các bạn hãy tham khảo thêm các nhà văn lớn nước ngoài từng viết tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng. Đó là thi hào Nga Puskin (1799-1836) viết vở kịch lịch sử Boris Gođunov (1825) vào tuổi 26. Nữ văn sĩ Mĩ Margaret Mitchell (1900-1949) viết tiểu thuyết lịch sử nổi tiếng Cuốn theo chiều gió (1935) phản ánh cuộc nội chiến Bắc - Nam Hoa Kỳ (1861-1865) ở tuổi 35, và tác phẩm này được dựng thành phim (xếp hạng một trong mười bộ phim hay nhất của thế kỷ XX). Nhà văn Mikhain Solokhov (1905-1984) bắt đầu viết tiểu thuyết Sông Đông êm đềm (1825-1940) ở tuổi 20, giữa lúc tiếng súng nội chiến còn đang “bốc khói”, tác phẩm đã được tặng giải Nobel (1967)... Ở Việt Nam, nhà văn Nguyễn Huy Tưởng (1912-1960) viết tiểu thuyết lịch sử Đêm hội Long Trì (1942) ở tuổi 30 và sau đó một năm, ông hoàn thành vở kịch lịch sử Vũ Như Tô (1943) đầy hấp dẫn. Chẳng phải ở thế kỷ XVII, nhà thơ cổ điển Pháp P. Corneille (1606-1684) qua vở bi kịch lịch sử Le Cid từng nói rõ “Tài năng không cần hẹn tuổi”.

   Nhìn một cách khái quát và biện chứng, có thể nói lịch sử cũng như tiểu thuyết lịch sử tuy gắn bó keo sơn với sự thật, song sự thật chỉ có thể đóng vai trò gợi ý dẫn đường giữa quá khứ với tương lai chứ không phải hiển hiện một tương lai đã vạch sẵn từ trước, mà chỉ sẽ tạo những phương hướng tìm về một dự án mai sau chưa từng có, được khơi nguồn từ những ký ức được tái hiện mà không tách rời truyền thống lịch sử... Trong lĩnh vực rộng lớn này có thể tham khảo thêm ý kiến của nhà văn Nhị Nguyệt Hà (Trung Quốc) được mệnh danh là “nhà văn Hoàng đế” vì đã viết ba cuốn tiểu thuyết lịch sử về ba vị: Khang Hi đại đế, Ung Chính hoàng đế, Càn Long hoàng đế, từng có lời bàn thích đáng: “Sự việc lớn không thay đổi, sự việc nhỏ không câu nệ gò ép đúng sự thật, không cần có thật, chỉ cần có thể có thật...”. Hi vọng bài viết ngắn này có thể góp phần nhỏ bé vào việc gợi mở câu hỏi đã và đang được đặt ra: Tại sao Việt Nam ta từng nếm trải quá trình lịch sử xây dựng và chiến đấu anh dũng chống ngoại xâm suốt hàng ngàn năm mà vẫn chưa thấy xuất hiện các tác phẩm văn nghệ hay và đẹp xứng đáng với tầm vóc vĩ đại của toàn thể nhân dân?

 

 

 

Chú thích:
1 Belinsky, tập 10, NXB Matxcơva, 1956, tr. 18 (Nga văn).
2 Lenin, tập 13, NXB Matxcơva, tr. 632 (Nga văn).
3 Sklovsky (1978), Lev Tolstoy, tập I, NXB Văn hóa, tr. 172.
4, 5, 6, 9 Chiến tranh và hòa bình, tập III, NXB Văn học, tr. 330, 333, 5, 408. 7 Chiến tranh và hòa bình, tập IV, NXB Văn học, tr. 163. 8 Bản thảo Chiến tranh và hòa bình.
10 Dẫn từ Ephimov, Lịch sử cận đại, tập I, NXB Sự thật, tr. 189.
11 Pravđa trích Truyện ký Sevastopol tháng Năm - 1895 (tiếng Nga).

Bình luận

    Chưa có bình luận