VĂN HÓA ẨN DẬT CỦA TÁC GIẢ NHÀ NHO VIỆT NAM THỜI TRUNG ĐẠI QUA THƠ NÔM NGUYỄN BỈNH KHIÊM

Bài viết khái quát về loại hình, lý thuyết loại hình học văn học và sự phân loại tác giả nhà Nho Việt Nam thời trung đại. Từ đó giới thiệu thân thế, sự nghiệp tác giả nhà Nho ẩn dật Nguyễn Bỉnh Khiêm; phân tích, làm rõ những khía cạnh, biểu hiện và giá trị văn hoá ẩn dật của tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm qua thơ Nôm của ông.

   1. Về loại hình văn học và loại hình tác giả văn học

   Tư duy phân loại hay tư duy loại hình vốn đã hình thành từ rất lâu đời. Trải qua quá trình vận động và phát triển của lịch sử loài người, của nền tri thức nhân loại mà tư duy loại hình từng bước được phổ biến, hoàn thiện để trở thành một lý thuyết khoa học áp dụng khá hiệu quả trong lĩnh vực khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Với tư cách một lý thuyết trong nghiên cứu văn học thì loại hình học văn học (typology of lyterature) được phát triển mạnh bởi các nhà khoa học Liên Xô (cũ) vào đầu thế kỷ XX, nhất là các nhà Đông phương học khi áp dụng trong nghiên cứu các nền văn học ở khu vực Đông Á. Loại hình học văn học nhanh chóng được tiếp thu ở Việt Nam với tên tuổi của một số nhà nghiên cứu quen thuộc như Trần Đình Hượu, Trần Ngọc Vương, Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Hữu Sơn, Vũ Thanh… Lý thuyết loại hình học văn học đã phát huy giá trị và hiệu quả của nó khi người nghiên cứu áp dụng trong phân chia, đánh giá, luận giải các vấn đề của văn học. Nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu, giáo trình giảng dạy, thậm chí cả logic giảng dạy các bài học Ngữ văn trong nhà trường phổ thông ở Việt Nam trước đây cũng như hiện nay, dù không thể hiện ở nhan đề thì tư duy của lý thuyết này cũng có thể nhìn thấy khá rõ. Loại hình học văn học, theo chúng tôi, vẫn luôn là một lý thuyết có tính ứng dụng cao, không hẳn mới nhưng lại chưa có dấu hiệu bị cũ đi là vì lẽ đó.

   Loại hình học tác giả văn học là một phần của loại hình học văn học. Loại hình tác giả văn học được Trương Tửu - Nguyễn Bách Khoa gợi mở khi ông nghiên cứu về tác gia Nguyễn Công Trứ1. Sau đó là một loạt các nghiên cứu về các loại hình tác giả trong gần mười thế kỷ văn học trung đại của Trần Đình Hượu2, Trần Ngọc Vương3, Đỗ Lai Thúy4, Nguyễn Kim Sơn5, Nguyễn Hữu Sơn6, Vũ Thanh7, Lê Văn Tấn8… Qua các nghiên cứu của các nhà nghiên cứu trên đây, có thể nói rằng, đến thời điểm này, hầu hết các kiểu/ loại hình tác giả trong văn học trung đại của Việt Nam đã được quan tâm nghiên cứu tương đối thỏa đáng.

   Với loại hình tác giả nhà Nho, chúng tôi tán thành cách phân loại (dù vẫn còn những điểm cần bàn luận thêm) về việc phân chia thành ba tiểu loại là: 1) Tác giả nhà Nho hành đạo - trung nghĩa; 2) Tác giả nhà Nho ẩn dật; 3) Tác giả nhà Nho tài tử. Trong ba tiểu loại này, tác giả nhà Nho hành đạo - trung nghĩa và tác giả nhà Nho ẩn dật là “cặp song sinh” (từ dùng của GS Trần Ngọc Vương) song diện mạo và đặc điểm có nhiều điểm khác biệt. Giữa họ có sự hoán đổi cho nhau hoặc là con đường từ quan lộ hành đạo đến thoái lui ẩn dật của họ có những điểm/ những thời gian trùng lên nhau khá thú vị. Về tác giả nhà Nho tài tử thì có công trình của GS, TS Trần Ngọc Vương có tính tham khảo cao9; tác giả nhà Nho ẩn dật thì có chuyên khảo của PGS, TS Lê Văn Tấn10; tác giả nhà Nho hành đạo - trung nghĩa hiện chưa có công trình chuyên khảo mang tính toàn diện và hệ thống, dù đã có vài công bố khái quát diện mạo và đặc điểm tiểu loại tác giả này của PGS, TS Lê Văn Tấn11. Trên cơ sở tiếp thu các nghiên cứu trên đây và với cách tiếp cận vẻ đẹp đất nước, con người Việt Nam qua sáng tác văn chương của nhà Nho thời trung đại, chúng tôi cho rằng: Tác giả nhà Nho ẩn dật đã đẩy sự lựa chọn ẩn/ thoái ẩn trở thành một triết lý sống thanh cao trong những điều kiện riêng của lịch sử đương thời. Chúng tôi cho rằng triết lý sống thanh cao ấy hoàn toàn xứng đáng là một ứng xử văn hóa – văn hóa ẩn dật của các nhà Nho thời trung đại.

   Tác giả nhà Nho ẩn dật là những tác giả nhà Nho có thể chịu ảnh hưởng của hệ tư tưởng Nho giáo trong việc lựa chọn con đường hành đạo – nhập thế nhưng khi về ẩn dật, họ đã tiếp thu linh hoạt tư tưởng Lão - Trang và phần nào tư tưởng Phật giáo; họ có thể đi ở ẩn suốt đời hoặc chỉ đi ở ẩn trong khoảng thời gian nào đó và có sáng tác văn chương thể hiện cuộc sống, tư tưởng ẩn dật. Những tác giả nhà Nho ẩn dật tiêu biểu có thể nhắc đến là Chu Văn An, Trần Nguyên Đán, Nguyễn Húc, Nguyễn Trãi, Nguyễn Dữ, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Chu Doãn Trí, Ngô Thế Lân, Nguyễn Thiếp, Nguyễn Huy Vinh, Lê Hữu Trác, Nguyễn Khuyến...

   Nguyễn Bỉnh Khiêm là một nhân cách văn hoá lớn. Thông qua cuộc đời hoạt động chính trị cũng như số thơ văn còn lại hiện lên ở ông tư cách của một Nho sĩ hành đạo nghiêm cẩn, có trách nhiệm cao. Tuy vậy, nhìn tổng quát trong mối tương quan “hành” và “tàng”, “xuất” và “xử” thì Nguyễn Bỉnh Khiêm lại vẫn nghiêng về “tàng” và “xử” hơn là “hành” và “xuất”. Bạch Vân cư sĩ chỉ có thể tìm thấy chính con người của mình ở nơi mây nước, trăng trời thanh vắng, tao nhã mà thôi. Đây chính là điểm khác biệt căn bản và cũng dễ nhận thấy nhất ở Nguyễn Bỉnh Khiêm so với một trường hợp cũng khá điển hình trước đó là đại thi hào Nguyễn Trãi.

   2. Thân thế và sự lựa chọn cuộc đời của nhà Nho Nguyễn Bỉnh Khiêm

   Nguyễn Bỉnh Khiêm quê ở làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại (nay là huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng). Ông sinh năm 1491, thời điểm mà nhà Lê đã đạt tới trình độ phát triển cực thịnh; mất năm 1585, khi nhà Mạc đã chiếm cứ phần lớn Bắc Bộ. Bức tranh xã hội Việt Nam đương thời khá rối ren khi các tập đoàn phong kiến phân tranh, giành đoạt quyền lợi lẫn nhau, đời sống của nhân dân một số nơi rơi vào cảnh nghèo đói, ly tán. Là môn đệ của cửa Khổng sân Trình, Nguyễn Bỉnh Khiêm ôm ấp lý tưởng “trí quân trạch dân”, “tiên ưu hậu lạc” của nhà nho, song ông lại khá thận trọng quan sát thế cuộc để lựa chọn thời điểm hành đạo thích hợp nhất. Bỏ qua nhiều kỳ thi, đến năm 1535, khi đã ở vào tuổi 45, ông mới ứng thí và đậu Trạng Nguyên, sau đó làm quan cho nhà Mạc – triều đại vẫn từng bị coi là “ngụy triều” lúc bấy giờ. Sự lựa chọn của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong tình huống này, ở một phương diện nào đó, có thể “bất đắc dĩ” nhưng hẳn là với một nhận thức rất tiến bộ, linh hoạt của mình, ông đã nhìn thấy được những mặt tốt đẹp của vương triều mới. Ít nhất đó là cơ hội để một người như ông có thể hiện thực hóa mơ ước, lý tưởng của mình từng ôm ấp bấy lâu (thời gian không cho phép ông nấn ná thêm được nữa!). Nguyễn Bỉnh Khiêm đã hi vọng ít nhất là triều Mạc có thể mang đến một sự đổi thay nhất định nào đó để có thể đưa đất nước ra khỏi tình trạng rối ren, loạn lạc mà các vua Lê như Uy Mục, Tương Dực và đám quần thần đã gây ra. Tiếc rằng sự trị vì của Mạc Đăng Doanh, người kế vị Mạc Đăng Dung, chỉ kéo dài trên dưới 10 năm (1530-1540). Tiếc rằng sự trị vì của Mạc Đăng Doanh quá ngắn ngủi (ông mất năm 1540) và Mạc Phúc Hải lên làm vua. Ngay sau sự kiện này không lâu, Mạc Đăng Dung (tuy lúc này không còn ở ngôi nữa) đã làm một việc đê nhục tới thể diện quốc gia: cắt đất, thần phục “thiên triều” và không danh chính xưng vương. Sự kiện này đã tạo nên một sự “va đập” rất mạnh vào niềm tin của nho sĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ngày 22 tháng 8 âm lịch năm 1541, Mạc Đăng Dung mất thì đúng một năm sau, năm 1542, Nguyễn Bỉnh Khiêm dâng “sớ đàn hặc” xin chém 18 lộng thần. Mạc Phúc Hải không chấp thuận, Nguyễn Bỉnh Khiêm xin về hưu trí. Ông lựa chọn chính nơi từng cất bước ra đi để trở về dưỡng hối: làng TrungAm, huyện Vĩnh Lại (nay thuộc Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng). Tại đây ông mở quán Trung Tân, lập am Bạch Vân, lấy hiệu Bạch Vân cư sĩ và mở trường dạy học. Khát vọng hành đạo của kẻ sĩ được ông tạm thời gác lại, truyền dạy, gửi gắm và ký thác qua các bài giảng cho môn đệ và qua thơ văn.

   Trong thời gian hưu trí ở quê nhà, Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn gián tiếp dự bàn vào chính sự. Các phe phái, tập đoàn phong kiến thường qua lại xin ý kiến của ông. Điều đó chứng tỏ ở ông có uy vọng lớn mà không phải Nho gia nào cũng có được và ở một góc độ nào đó có thể thấy cái cách hành đạo rất riêng của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Việc ông khuyên họ Mạc nên trấn thủ đất Cao Bằng, họ Nguyễn vào giữ Thuận Hóa, họ Trịnh mượn danh nghĩa nhà Lê mà giữ trọng quyền ở trung ương theo kiểu “Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản” đến giờ vẫn chỉ là tương truyền. Song điều này cho thấy nhận thức khá linh hoạt của Nguyễn Bỉnh Khiêm về tình hình chính trị lúc đó. Ông là người kịch liệt phê phán, phản đối chiến tranh, cát cứ. Song việc khuyên ba thế lực trấn giữ ba địa phận thì hóa ra là ông đã tiếp tay cho nạn cát cứ? Có lẽ điều này cần được nhìn từ thực tế khi Nguyễn Bỉnh Khiêm thấy rằng thời điểm thống nhất đất nước, giang sơn thu về một mối chưa chín muồi. Khoan hòa và giữ ở hiện trạng như thế ít nhất để đời sống của nhân dân tạm yên ổn, huynh đệ giảm đi sự tương tàn nồi da nấu thịt. Và bản thân ông, do sự quy định của lịch sử, cũng hoàn toàn bất lực về việc tìm kiếm một nền hòa bình vững chắc cho đất nước thống nhất.

   Từ năm 1554 đến năm 1561, Nguyễn Bỉnh Khiêm có tới hai lần theo quân Mạc đi đánh anh em Vũ Văn Mật ở Tuyên Quang. Ông từng lấy tình bè bạn khuyên Nguyễn Thiến răn con trai Nguyễn Quyện và lấy tình thầy trò khuyên Nguyễn Quyện bỏ Lê - Trịnh về với nhà Mạc. Khoảng năm 1563 thì Nguyễn Bỉnh Khiêm xin về trí sĩ tại quê hương và từ đây tới khi mất, ông không tham gia trực tiếp vào chính sự nữa. Trước khi mất, Nguyễn Bỉnh Khiêm còn để lại cho Mạc Mậu Hợp kế hoạch để có thể duy trì dòng họ của mình ở đất Cao Bằng. Điều này thêm một minh chứng cho thấy tình cảm, sự gắn bó khá sâu sắc của ông với nhà Mạc. Năm 1585, khi nghe tin Nguyễn Bỉnh Khiêm mất, vua Mạc đã sai Mạc Kính Điển làm Khâm sai, cùng các con về dự tế, truy phong ông Thượng thư bộ Lại, Thái phó Trình quốc công, lại ban cho sở tại ba nghìn quan tiền để lập đền thờ và cấp một trăm mẫu ruộng tự điền để thờ cúng. Học trò làm văn tế Nguyễn Bỉnh Khiêm và tôn ông là Tuyết Giang phu tử.

   Như vậy, sinh ra ở làng TrungAm và trở về hưu trí cũng như mất tại làng TrungAm, có thể nói không gian Trung Am đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm có một vai trò cực kỳ quan trọng. Nó là nơi bắt đầu cũng là nơi trở về mãi mãi của một con người say mê lý tưởng, khát vọng cống hiến luôn sục sôi. Nẻo đường hành đạo của ông nhìn bề ngoài có thể không có nhiều sóng gió song ở vào bất kỳ thời điểm nào, trong mỗi sự lựa chọn đều mang cái dữ dộiriêng của nội tâm ông. Chỉ có điều, với tư cách của bậc túc nho, trí và dũng đều đạt độ cao siêu, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã thể hiện ra bên ngoài, qua thơ văn sự ung dung, tự tại, bình thản đến bất ngờ đối với đương thời cũng như hậu sinh. Đối với sáng tác thơ văn, qua Bạch Vân am thi tập và đặc biệt là Bạch Vân quốc ngữ thi tập, người đọc sẽ thấy ở đó bàng bạc không gian làng Trung Am, không gian thực giữa cõi đời mà bảng lảng sương khói, mênh mang cho cái tôi ẩn sĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện, bảo toàn di dưỡng sự cao khiết của khí tiết trước tục lụy. Nếu coi Chu Văn An như sự bắt đầu của mẫu hình nhà Nho ẩn dật, qua Trần Nguyên Đán, Nguyễn Húc, rồi phát triển đến một đỉnh cao với Nguyễn Trãi ở thế kỷ XV thì đến Nguyễn Bỉnh Khiêm, sự lựa chọn lối sống ẩn mới thực sự phát triển ở mức độ cao nhất và từng bước xác lập nên một hình thái văn hóa đặc sắc: văn hóa ẩn dật của kẻ sĩ (dường như sau Nguyễn Bỉnh Khiêm thì hình thái văn hoá này dù vẫn còn tiếp tục được thể hiện qua một số tác giả khác như Nguyễn Dữ, Ngô Thế Lân, Nguyễn Thiếp, Chu Doãn Trí hay Nguyễn Khuyến song rõ ràng màu sắc, dư vị của nó đã không còn cái nguyên sơ, thích thảng đậm chất Lão - Trang như ở Bạch Vân cư sĩ).

   3. Biểu hiện và giá trị văn hóa ẩn dật của Nguyễn Bỉnh Khiêm qua khảo sát thơ Nôm

   Để minh chứng cho những nhận định và đánh giá của chúng tôi về biểu hiện cũng như giá trị văn hóa ẩn dật của nhà Nho Nguyễn Bỉnh Khiêm, chúng tôi tiến hành khảo sát toàn bộ các sáng tác thơ Nôm của ông được in trong Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm của nhóm tác giả Đinh Gia Khánh, Hồ Như Sơn và Bùi Duy Tân biên soạn12. Ngoài sách này, chúng tôi cũng tham khảo thêm các bài thơ Nôm trong Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm tổng tập của nhóm tác giả Lê Hữu Nhiệm, Phạm Văn Ánh (phiên âm, dịch, chú)13.

   3.1. Thái độ chối từ danh lợi của kẻ sĩ

   Chúng tôi cho rằng sự biểu hiện đầu tiên của một thái độ sống thanh cao với kẻ sĩ mọi thời đại nói chung, của các Nho sĩ Việt Nam thời trung đại nóiriêng chính là sự bỏ qua, hay ít nhất là không quá bị câu nệ hay phụ thuộc những giá trị vật chất. Vẫn biết rằng nhu cầu đầu tiên và cũng là nhu cầu trường tồn của con người là vật chất để duy trì sự tồn tại song thái độ và ứng xử của mỗi người về nó lại hoàn toàn khác nhau và cho thấy được đẳng cấp ở con người đó. Bên cạnh nhu cầu về vật chất sẽ là nhu cầu về tinh thần mà sự phát triển cũng như biểu hiện cao nhất của nhu cầu đó chính là sự được tôn trọng thể diện. Với các Nho sĩ, dường như qua đời sống cũng như qua trước tác của họ thì có thể thấy họ có nhu cầu về tinh thần cao hơn nhu cầu về vật chất, họ tìm cách tối giản nhất những nhu cầu về vật chất để thể hiện sự quan tâm đến nhu cầu về tinh thần. Nhu cầu về tinh thần và nhu cầu được thỏa mãn về tinh thần trở thành mong mỏi cũng là một biểu hiện khá sinh động của các Nho sĩ trung đại qua thơ ca. Nhu cầu thỏa mãn về vật chất khác với nhu cầu về Lợi và nhu cầu về tinh thần khác với nhu cầu về Danh.

   Nếu nhu cầu về vật chất và nhu cầu về tinh thần là sự thỏa mãn cá tính và sở thích thì nhu cầu về Danh và nhu cầu về Lợi lại hướng đến sự mưu cầu có được từ phía chính thể và xã hội. Phàm Nho sĩ khi vẫn còn mong muốn và thích thú về Danh và Lợi hay về Danh Lợi nói chung thì họ vẫn còn đang luẩn quẩn với tục lụy, vẫn còn được mất, hơn thua, đua chen, cầu cạnh và mong thể hiện mình, mong được người khác để ý, chú ý đến mình như một giá trị ngoài cá nhân. Đó là mức độ thứ nhất của giá trị bản thể khi giá trị đó vẫn còn đang bị phụ thuộc ở phía khách quan.

   Xét về mặt từ ngữ, có thể tạm hiểu, “Danh” là hướng đến giá trị tinh thần, còn “Lợi” là những giá trị vật chất. Với Nho sĩ nói chung và người ẩn dật nói riêng thì danh và lợi luôn là những vấn đề được họ đề cập tới, còn thái độ của họ với điều đó thì ở mỗi người mỗi khác. Thái độ khác nhau của Nho sĩ nói chung, của Nho sĩ ẩn dật nói riêng về vấn đề này sẽ thể hiện đẳng cấp ứng xử của mỗi người trong bối cảnh và không gian văn hóa riêng của từng thời đại khác nhau trong lịch sử dân tộc.

   Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng từng coi vấn đề lập danh là một nội dung quan trọng trên con đường hành đạo của mình. Nhưng khác với các nhà Nho khác trước và sau mình, thi nhân không quá trăn trở về điều này. Đây là điểm khác biệt của ông so với các nhà Nho và nhà Nho ẩn dật trước và sau ông.

   Khảo sát Bạch Vân quốc ngữ thi tập, chúng tôi thấy chỉ có duy nhất một lần ông đề cập tới chí hướng công danh của mình:

   “Đôi chữ công danh còn xắm nắm,
   Một lòng ưu ái hãy lăm le”.
                                             (Bài 111)14

   Sở dĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm không nói nhiều đến chí hướng công danh, sự tạo dựng sự nghiệp hành đạo của cá nhân, có lẽ là xuất phát từ nhận thức của ông: trải quan những thăng trầm, sự quan sát, trải nghiệm những biến cố của các triều đại, các chính thể và ứng xử của mình, ông đã thực sự cảm thấy hài lòng, tri túc về những gì mình đã đạt được trên phương diện danh vọng, kể cả sự thụ hưởng về vật chất:

   “Hễ kẻ làm quan đã có duyên,
   Tới lui mặc phận tự nhiên.
   Thân xưa hương lửa chăng còn ước,
   Chí cũ công danh đã phỉ nguyền”
                                                  (Bài 51)

   Ông hài lòng về công danh của mình – đây là điều hiếm thấy ở Nho sĩ trung đại, kể cả mẫu người ẩn dật. Điều này đã cung cấp thêm một lý do để giải thích cho thái độ ung dung, tự tại của ông khi chan hòa cùng với cuộc sống thôn xóm, không gian làng Trung Am. Từ đó, ông tìm cách đối lập giữa công danh và đời sống của ẩn sĩ. Công danh là khổ lụy, mặn lạt, chông gai; người chạy theo công danh sẽ khó có thể tìm kiếm một cuộc sống an nhàn, bình an, ít nhất là ở tâm thế. Ngược lại thì cuộc sống ẩn dật thực sự vui thú, thỏa mãn về tinh thần, tự do, thích thảng, trong trảo, thanh cao:

   “Thuở áng công danh, nhiều phải lụy,
   Trong nơi ẩn dật mấy nên mầu.
   Thuở nơi doanh mãn là nơi tổn,
   Hãy gẫm chi hay mới kẻo âu”.
                                                      (Bài 9)

   “Mùi thế gian nhiều mặn lạt,
   Đường danh lợi có chông gai.
   Mấy người phú quý hay yên phận?
   Hễ kẻ anh hùng những cậy tài?”.
                                                      (Bài 40)

   Từ nhận thức và thái độ như trên, Nguyễn Bỉnh Khiêm tiếp tục nhìn thấy bước đường công danh nhiều hiểm trở mà ông ngại chen để kiếm tìm cuộc sống ẩn. Ông ra làm quan muộn và từ quan sớm là vì lẽ đó, dù sự “va đập” với chính thể của ông không quá “có vấn đề” như rất nhiều nhà Nho khác. Thậm chí trên thực tế, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã từng luôn là “điểm đến”, “điểm được tìm đến” của các thế lực chính trị vốn đang mâu thuẫn và tranh giành ảnh hưởng lúc bấy giờ. Đó là điểm rất hiếm có mà có lẽ trong lịch sử thời trung đại, người như Nguyễn Bỉnh Khiêm không có nhiều. Bạch Vân cư sĩ tìm đến cuộc sống tự do của mình rất sớm là vì những nhận thức vượt thời đại ấy của bản thân mình:

   “Thấy dặm thanh vân bước ngại chen,
   Được nhàn, ta sá dưỡng thân nhàn.
   Ba gian am quán, lòng hằng mến,
   Đòi chốn sơn hà, mặt đã quen”.
                                                      (Bài 8)

   Phủ định danh lợi từ căn gốc triết học trong tư tưởng Lão - Trang, Nguyễn Bỉnh Khiêm coi công danh, lợi lộc ở đời chỉ như một giấc chiêm bao, như giấc mộng mà thôi:

   “Lần nữa ngày qua tháng qua,
   Một phen xuân tới, một phen già.
   Ái ưu vằng vặc: trăng in nước,
   Danh lợi lâng lâng: gió thổi hoa”.
                                                    (Bài 1)

   “Nép mình qua trước chốn xôn xao,
   Mấy sự bên tai, gió thổi phào.
   Cửa trúc vỗ tay cười khúc khích,
   Hiên mai vắt cẳng hát nghêu ngao”.
                                                     (Bài 83)

   Coi công danh như gió thổi mây bay tất nhiên không phải là một “đặc sản” riêng có ở nhà Nho Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trước Nguyễn Bỉnh Khiêm, Trần Nguyên Đán cũng từng nhắc đến trong bài thơ Quân trung hữu cảm với nội dung: Công danh với kẻ sĩ thì chưa hề muộn, hôm nay chưa có được thì đợi đến ngày mai, trước mắt hãy cứ vui với sông nước mây trời đi; Nguyễn Trãi cũng nói đến danh lợi, nhất là lập danh và lập thân, cũng như sự tạo dựng sự nghiệp, song rõ ràng khi mà vẫn chờ đến ngày sau (Trần Nguyên Đán) hay luôn canh cánh về nó (Nguyễn Trãi) thì bản thân các nhà Nho vẫn chưa thể dứt, chưa thể phủ nhận được nó một cách thản nhiên. Sau Nguyễn Bỉnh Khiêm khá xa, nhà Nho Nguyễn Khuyến cũng nói đến công danh nhưng lại là mặc cảm thân phận với thái độ phản tư khi ai đó đã nên danh nên giá còn mình thì lận đận nửa đời không nên cơm nên cháo gì cả. Nguyễn Khuyến trong bối cảnh riêng của thời đại và khả năng nhận thức rất tỉnh táo của mình lúc đó mà vẫn còn mong muốn, mưu cầu con trai là Hoan tiếp tục “nối gót” cho khát vọng công danh thì quả thực chúng tôi cho đó chính là điểm bảo thủ vốn nhiều Nho sĩ Việt Nam ở vào nửa sau của thế kỷ XIX mắc phải (bài thơ Xuân nhật thị tử Hoan – Ngày xuân dạy con là Hoan). Cố nhiên, sự ý thức về công danh vốn nhiều trắc trở, cám dỗ, hiểm nguy thì hầu hết các bậc túc Nho đều ý thức rất riết ráo để từ đó tìm đường thoái lui để di dưỡng tinh thần và bảo tồn chân tính:

    “Dưới công danh đeo khổ nhục,
   Trong dại dột có phong lưu”.
                                 (Ngôn chí, số 2 - Nguyễn Trãi)15

   “Dưới công danh nhiều thác cả,
   Trong ẩn dật có cơ mầu”.
                           (Bảo kính cảnh giới, số 32 - Nguyễn Trãi)16

    “Ta không thể vì số lương năm đấu gạo đỏ mà buộc mình trong áng lợi danh. Âu là một mái chèo về, nước biếc non xanh vốn chẳng phụ gì ta đâu vậy”
                                                                                                                                                                                   (ChuyệnTừThức lấyvợtiên–NguyễnDữ)17

   Một vài so sánh để thấy rằng bản thân các Nho sĩ nói chung, Nho sĩ ẩn dật nói riêng vốn cũng ý thức và cảm nhận được rất sâu sắc về câu chuyện danh lợi song để đạt đến trạng thái, hay nói đúng hơn chính là tâm thế trung dung, tự tại, bỏ qua sự quan tâm đến thế sự, triều chính, xã tắc từ chiều sâu của cái tôi nội cảm thì Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn là một sự thể hiện hiếm có mà theo chúng tôi là không lặp lại trong quá trình vận động, phát triển của loại hình tác giả nhà Nho trong lịch sử văn chương Nho giáo Việt Nam thời trung đại.

   3.2. Thế đứng của kẻ sĩ trong xã hội

   Khi quyết định từ quan lui về trí sĩ, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã lựa chọn một điểm dừng chân là quê cũ (làng Trung Am) nhưng trên thực tế, ông lại “can thiệp” khá sâu vào cục diện của đất nước đương thời. Đây là một điểm đặc biệt mà lịch sử vẫn còn đang có nhiều bàn luận như một câu chuyện chưa có hồi kết. Về phương diện cá nhân, điều đó thể hiện uy vọng rất lớn của ông đối với các tập đoàn phong kiến đương thời. Trong thơ, ta sẽ thấy hình tượng của một thi nhân luôn đứng cao hơn tục lụy, nhìn về tục lụy bằng con mắt của một người đạt được cái đạo của ẩn sĩ – vinh hay nhục, khen hay chê, được và mất đều trở nên vô nghĩa, đều không còn chút cấn cá, băn khoăn gì nữa cả:

   “Vinh nhục ba phen hẳn đã từng,
   Lòng người, sự thế lâng lâng.
   Khen thì nên ngộ, chê nên dại,
   Mất ắt chẳng âu, được chẳng mừng”.
                                                    (Bài 6)

   “Mống phúc vun, hòng ngày một này,
   Cửa nho ngỏ, kẻo phải then cài.
   Yên đòi phận, dầu tự tại,
   Lành dữ khen chê, cũng mặc ai”.
                                                     (Bài 12)

   Nhà Nho Nguyễn Bỉnh Khiêm tìm thấy được niềm vui thú với cuộc sống của người ở ẩn. Đời sống vật chất chỉ để duy trì sự tồn tại luôn có sẵn trong tự nhiên ở mức tối giản nhất. Lẽ đó mà con người ấy ngay cả khi nói đến sinh hoạt vật chất nhưng thực chất lại là sự thể hiện của đời sống tinh thần:

   “Khát uống chè tươi hơi ngọt ngọt,
   Sốt, kề hiên nguyệt gió hiu hiu”.
                                                 (Bài 3)

   “Khát uống chè mai hơi ngọt ngọt,
   Sốt, kề hiên nguyệt gió hiu hiu”.
                                                  (Bài 3)
    “Cơm ăn chẳng quản dưa nuối,
   Áo mặc nài chi gấm thêu?”
                                                   (Bài 67)

   Cuộc sống của ẩn sĩ là cuộc sống tự cấp tự túc, đói thì cày ruộng để tăng gia sản xuất, tự trồng trọt để lấy rau quả (không thấy nhắc đến chăn nuôi?):

   “Cày ăn, đào uống yên đòi phận,
   Sự thế chăng hay đã Hán, Tần”.
                                            (Bài 50)

   “Ruộng thì hai khóm đất con ong,
   Đầy tớ ta cày kẻo muộn mòng”.
                                              (Bài 52)

   “Ruộng năm bảy khóm trồng cây lúa,
   Tằm chín, mười nong để giống ngài”.
                                                 (Bài 122)

   Ẩn sĩ làng Trung Am tìm tới một cuộc sống thanh đạm, giản dị, lấy bàn rượu, cuộc cờ, án sách làm thú vui, trăng thanh gió mát làm bầu bạn, uống trà, ngắm cảnh, thưởng ngoạn thiên nhiên… Ẩn sĩ ấy tự thấy mình là khách nhàn, là tiên giữa cõi tục:

   “Nước tuyết hâm trà dưới bếp,
   Bút hoa điểm sách trên yên.
   Nương song, ngày tiếc mùi hương lọt,
   Nối chén, đêm âu bóng quế tan”.
                                                    (Bài 23)

   “Bàn cờ, cuộc rượu, vầy hoa trúc,
   Bó củi, cần câu, trốn nước non.
   Nhàn được thú vui hay nấn ná,
   Bữa nhiều muốn bể chứa tươi ngon”.
                                                        (Bài 29)

   Trong bộ phận thơ ca của tác giả nhà Nho ẩn dật, ở phương diện này, Nguyễn Bỉnh Khiêm và phần nào là Nguyễn Trãi trước đó vẫn là hai nhà Nho có những diễn đạt hay nhất, sâu nhất hình ảnh thi nhân đứng cao hơn thế tục, quan sát, chiêm ngưỡng về cõi thế bằng cái nhìn của người đạt đến Đạo ẩn cao khiết.

   3.3. Hòa mình vào thiên nhiên, hướng đến thiên nhiên nhàn tản

   Có thể khẳng định rằng nếu như thơ ca của nhà Nho nói chung khi thể hiện hình ảnh của cái tôi cá nhân vốn đã luôn hướng đến thiên nhiên, coi thiên nhiên như một đối tượng gửi gắm, ký thác tâm sự18 thì đối với ẩn sĩ, thiên nhiên là môi trường lý tưởng nhất để họ ẩn, giấu mình đi trước cõi tục bởi thiên nhiên chứa đựng trong nó cái bản nguyên chân tính cao khiết. Thiên nhiên thanh sạch, tĩnh lặng sẽ là không gian đối lập với đời sống xã hội đương thời. Người ẩn dật dù ở đường hướng nào khi đã lựa chọn con đường thoái lui, bao giờ họ cũng chọn sơn khê, nơi có thiên nhiên bao trùm làm môi trường ẩn của mình. Có người chọn không gian núi non, xa với cuộc sống xã hội như Nguyễn Trãi, Nguyễn Dữ; có người lại lựa chọn không gian ẩn gần với cuộc sống của nhân dân hơn như trường hợp của Nguyễn Bỉnh Khiêm hay Nguyễn Khuyến sau này. Và tất nhiên, sẽ là lý tưởng nếu như nơi bắt đầu con đường dấn thân hành đạo của họ lại chứa đựng đủ đầy những giá trị để họ có thể trở về dưỡng hối như trường hợp của làng Trung Am. Nhưng điều đáng nói ở đây là ở chỗ dù không gian ẩn này có gần với sinh hoạt xã hội đến đâu thì bản thân Nho sĩ bao giờ cũng tạo ra một khoảng cách nhất định, khoảng cách về không gian chứ không phải khoảng cách về mặt tình cảm. Đọc Bạch Vân quốc ngữ thi tập, hẳn người đọc sẽ thấy ở đó bàng bạc cái không gian Trung Am của quê hương Nguyễn Bỉnh Khiêm. Song không gian đó lại có cái bảng lảng sương khói, có trăng, có mây, có sông nước, có trúc, có chim, có hoa... Tất cả tạo ra một không gian, môi trường phù hợp với ẩn sĩ. Lập quán Trung Tân, dựng am Bạch Vân chính là cái cách mà Nguyễn Bỉnh Khiêm tạo lập cho mình một không gian như thế. Điểm nhìn nghệ thuật của hầu hết sáng tác của ông lúc này cần được nhìn nhận từ không gian sống của ông là vì lẽ đó. Và trong nhiều trường hợp, tác giả có nhắc đến am, am quán:

   “Bóng hoa lệ động, am chưa phất,
   Măng trúc còn tươi, bếp mới sôi”.
                                              (Bài 10)

   “Bạch Vân am vắng chim kêu muộn,
   Kim tuyết dòng thanh cá mát tươi”.
                                               (Bài 109)

   “Tử mạch, đường người la ỷ rợp,
   Bạch Vân, am tớ có hoa tươi”.
                                                   (Bài 110)

   Trong thời gian ở ẩn tại Trung Am, thi nhân luôn thể hiện mình là một ẩn sĩ thanh cao, hòa mình vào thiên nhiên, lấy thiên nhiên làm môi trường sống đích thực của mình. Không gian đó có sông suối, trúc mai, thông cúc, bốn mùa như tranh vẽ:

   “Cảnh cũ vẫn còn non nước cũ,
   Chốn nào là chẳng chốn xuân phong”.
                                                   (Bài 34)

   “Trăng thanh, gió mát lìa tương thức,
   Nước biếc, non xanh, ấy cố tri”.
                                                    (Bài 84)

   “Nước biếc, non xanh, thuyền cuối bãi,
   Đêm thanh, nguyệt bạc, khách lên lầu”.
                                                     (Bài 116)

   Từ đây, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã viết nên những câu thơ đẹp, giàu mĩ cảm, thể hiện sự giao hòa giữa con người ẩn sĩ với thiên nhiên. Thiên nhiên và con người như một mà hai, như hai mà một:

   “Hoa nở, luống hay tin gió,
   Đầm thanh, còn thấy dáng trăng”.
                                           (Bài 16)

  “Đêm, đợi trăng cài bóng trúc,
   Ngày, chờ gió thổi tin hoa”.
                                              (Bài 17)

   “Thu êm, cửa trúc hồng vân phủ,
   Xuân tĩnh, đường hoa tử cẩm phong”.
                                                 (Bài 52)

   Ở một phương diện nào đó, có thể thấy thiên nhiên trong Bạch Vân quốc ngữ thi tập mặc dù có hướng tới không gian cao rộng của vũ trụ nhưng chúng tôi cảm nhận điều đó không nhiều mà hình như ẩn sĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm muốn tạo ra một không gian ẩn với sắc màu bàng bạc, bảng lảng khói sương giữa cõi tục. Thi nhân thì như tiên khách giữa chốn trần tục. Đây chính là điểm khá thú vị, tạo nên một nét riêng của tác giả trong việc xác lập hình ảnh ẩn sĩ hòa mình vào thiên nhiên môi trường sống so với các ẩn sĩ khác trước và sau ông:

   “Đủng đỉnh hôm mai, chơi nước trí,
   Nghêu ngao ngày tháng, dạo non nhân.
   Kìa kìa Lữ Vọng câu Bàn Thạch,
   Nọ nọ Nghiêm Quang náu Phú Xuân”.
                                               (Bài 133)

   “Ngắm chơi đã trải miền thôn dã,
   Hóng mát từng vui chốn thạch bàn.
   Một cỏ hoa đều đủ được,
   Rất vời thong thả cõi trần gian”.
                                             (Bài 142)

   “Đèo núi vỗ tay cười khúc khích,
   Rặng thông vắt cẳng hát nghêu ngao”.
                                              (Bài 143)

   Thiên nhiên là nơi thi nhân được hòa mình, được sống những năm tháng hết sức đẹp đẽ, cao khiết. Thiên nhiên trở thành người bạn cố tri, trở thành một nhân vật trữ tình nhiều sắc điệu trong thơ của ông. Về với thiên nhiên, Nguyễn Bỉnh Khiêm về với ngôi nhà lớn của mình – ngôi nhà vũ trụ. Ngôi nhà ấy luôn mở rộng cửa đón chờ sự trở về của kẻ sĩ sau bao thăng trầm thế sự. Ngôi nhà ấy cất lên những lời vi vút tinh khôi để những vần thơ được cất lên hết sức trong trẻo và khoáng đạt.

   3.4. Nỗi niềm thế sự của ẩn sĩ: không ẩn mà ẩn

   Do đặc thù trong tính cách Việt Nam từ xưa và có lẽ đến tận ngày nay là dung hòa, ngại sự cực đoan nên khác với ẩn sĩ Trung Hoa, hầu hết ẩn sĩ Việt Nam là “bất đắc chí”. Trường hợp lựa chọn con đường ẩn xuất phát từ bản nguyên chân tính khi căn cốt họ phù hợp với đời sống ẩn ở Việt Nam không có nhiều, đúng hơn là không có. Trong ứng xử với vương triều đương thời hay ứng xử với sinh hoạt xã hội cũng như trong sáng tác, các nhà Nho ẩn dật thường hé lộ ở họ sự dùng dằng, day dứt về một hướng lựa chọn cuộc đời khá rõ rệt. Khi tại chức thì đã đành, ngay cả khi đã ly tâm khỏi thị thành, họ luôn thể hiện sự quan tâm tới chính sự, gửi gắm và ký thác khát vọng hoạn lộ chưa hoàn thành của mình. Đây là một phương diện làm nên vẻ đẹp tư tưởng trong hệ thống sáng tác của nhiều Nho sĩ. Điều này chúng ta có thể thấy rất rõ ở một trường hợp tiêu biểu là Nguyễn Trãi. Hãy xem những vần thơ ông viết từ điểm nhìn không gian Côn Sơn:

   “Quân thân chưa báo lòng canh cánh,
   Tình phụ cơm trời áo cha”.
                                 (Ngôn chí, số 17)19

   “Còn có một lòng âu việc nước,
   Đêm đêm thức nhẫn nẻo sơ chung”.
                             (Thuật hứng, số 23)20

   Tất nhiên, hoàn cảnh thời đại và hoàn cảnh cá nhân của Nguyễn Trãi cũng như của mỗi Nho sĩ là khác nhau. Điều mà chúng tôi muốn nhấn mạnh ở đây là việc Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sống đến tận cùng cho cuộc sống ẩn dật của mình. Trong thời gian ở ẩn tại quê nhà, hành động hai lần theo nhà Mạc để đánh dẹp họ Vũ chỉ là một biểu hiện của một con người sống có trước có sau, có tín nghĩa, ân tình của ông. Còn trong thơ, đây đó có đôi ba chỗ ông thể hiện sự quan tâm tới chính sự, thời cuộc, vẻ như nợ quân thần còn chút vương vấn trong lòng thi nhân. Có thể dẫn ra đây một số ví dụ:

   “Đã ngoài mọi việc, chăng còn ước,
   Ước một tôi hiền, chúa thánh minh”.
                                                 (Bài 26)

   “Lộc nặng, há quên ơn chúa nặng?
   Máy nên, những lệ thuở công nên”.
                                                 (Bài 36)

   “Non nước vui chơi đã mặc dầu,
   Hãy còn canh cánh chí sơ âu”.
                                                  (Bài 114)

   Rõ là đọc những câu thơ trên, chúng ta thấy nỗi niềm của thi nhân về triều chính, xã tắc rất nhẹ nhàng, nói là bàng quan thì không hẳn song mọi sự với ông nhi nhiên tự nó, lẽ vần xoay là quy luật muôn đời vậy. Người đọc không tinh sẽ lầm tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm ẩn mà không ẩn hết, không đạt đạo ẩn của kẻ sĩ tìm đường thoái lui. Cố nhiên mảng sáng tác mà ông thể hiện những quan tâm sâu sắc về thế sự, về lẽ đời, về thế đạo nhân tâm lại là một chuyện khác. Ở đây, từ phương diện ẩn mà nói, Nguyễn Bỉnh Khiêm không có cái mặc cảm của kẽ sĩ “công chưa thành” mà “thân đã thoái” như những người khác. Ông thoái ở một tư thế đã “thành”, hơn nữa, ở tư thế mọi sự thành bại không hề khiến ông bận lòng (như chúng tôi đã nhắc đến ở phía trên). Ông ý thức rất rõ sứ mạng của ông đã hết và khi lựa chọn một ngã rẽ là ông thỏa chí, thích chí theo tư tưởng của Lão - Trang:

   “Mặt trời vàng, còn in bóng thỏ,
   Đầu non bạc, đã chật cây chinh”.
                                            (Bài 42)

   “Song hiên ngỏ cửa ngồi xem sách,
   Tự tại ngày qua mấy kẻ bằng”.
                                            (Bài 66)

   “Một mai, một cuốc, một cần câu,
   Thơ thẩn, dầu ai vui thú nào.
   Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ,
   Người khôn, người đến chốn lao xao.
   Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
   Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao.
   Rượu đến cội cây, ta sẽ uống,
   Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”.
                                             (Bài 73)

   Tư tưởng vô vi, tiêu dao nhàn tản, bỏ qua những trói buộc của tục lụy hướng con người đến sự hòa hợp thuận theo tự nhiên như tinh thần và triết lý tư tưởng của Lão - Trang đã được Nguyễn Bỉnh Khiêm tiếp thu và thể hiện rất mực sinh động trong sáng tác thơ Nôm. Đó chính là đặc điểm tạo nên sự khác biệt căn bản của lối sống, của cách ứng xử văn hóa ẩn của nhà Nho Nguyễn Bỉnh Khiêm so với các tác giả nhà Nho khác cùng loại hình thời trung đại.

   3.5. Hệ thống ngôn ngữ ẩn dật – hình thái đặc trưng của diễn ngôn văn hóa ẩn

   Tiếp nối dòng văn chương ẩn dật cũng như dòng thơ ca điền viên sơn thủy trong văn học trung đại Việt Nam, hệ thống ngôn ngữ ẩn đến Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng khá phong phú với nhiều hình thức diễn đạt khác nhau. Trong số 254 bài thơ Nôm của Bạch Vân quốc ngữ thi tập, ông dùng tổng cộng là 54 từ “nhàn”. Có thể nói ông đã tạo ra cho riêng mình một triết lý về sự nhàn. Nhàn với ông là sự đối lập giữa danh lợi với ẩn dật mà ở đó thi nhân được tự do, thích chí, ung dung tự tại. Nhàn giúp ông di dưỡng tính tình, đứng cao hơn thế tục:

   “Cửa mận, người yêu, nhiều khách trọng,
   Am hoa, ai ủi đến ông nhàn”.
                                                         (Bài 22)

   “Ắt đà từng phụ lộc triều quan,
   Lại được về nhàn, dưỡng tuổi tàn”.
                                                           (Bài 23)

   “Người tham phú quý, người hằng trọng,
   Ta được thanh nhàn, ta sá yêu”.
                                                            (Bài 47)

   Có 6 lần ông sử dụng chữ “ẩn”/ “ẩn dật” và 6 lần ông dùng chữ “dưỡng”. Một số ví dụ:

   “Anh hùng, người lấy tài làm trọng,
   Ẩn dật, ta hay thú có màu”.
                                               (Bài 28)

   “Mới hay phú quý bởi thời vần,
   Tua niệm ngang tàng thú dưỡng thân”.
                                                 (Bài 86)

   Đặc biệt, để diễn đạt sự ẩn của mình, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã sử dụng hàng loạt các từ ngữ như “lui” (3 lần), “ngại chen” (3 lần), “lánh” (2 lần), “nép” (1 lần) và đặc biệt ông thích sử dụng từ “vô sự” (8 lần). Qua những cách diễn đạt này, thêm một minh chứng ở Nguyễn Bỉnh Khiêm, sự lựa chọn cuộc sống ẩn rất tự nhiên, an nhiên, thích thảng, ung dung và thư thái hơn nhiều so với các ẩn sĩ khác. Ví dụ một số trường hợp:

   “Mựa hề toan lợi, mựa toan công,
   Lui tới thìn cho phải đạo trung”.
                                         (Bài 119)

   “Trẻ bất tài nên kém bạn,
   Già vô sự, ấy là tiên”.
                                          (Bài 45)

   “Mặc chê dề, mặc yêu thương,
   Vô sự thì ơn nữa ngọc vàng”.
                                          (Bài 90)

   Cũng cần kể ra đây việc Nguyễn Bỉnh Khiêm sử dụng các điển cố, điển tích gắn với tên người ẩn dật và không gian ẩn dật Trung Hoa như Hứa Do, Sào Phủ, Lữ Vọng, Nghiêm Quang, Đào Tiềm, Khổng Minh...; Hồ Tây, Bàn Thạch, Phú Xuân, Nam Dương...

   “Hồ Tây thuyền nổi, hoa mai bạc,
   Song Bắc cầm xoang, vừng nguyệt thanh”.
                                                      (Bài 15)

   “Vui vầy Lạc Xã dăm khách,
   Lánh chốn Nam Dương một lều”.
                                                      (Bài 25)

   “Của Thạch Sùng, nào của ấy?
  Danh Sào Phủ há danh không?”
                                                      (Bài 68)

   Ngoài ra, các loài cây hoa như: tùng, cúc, trúc, mai...; các loài vật như: long, ly, quy, phượng, vượn, hạc... với Nho sĩ nói chung là để thể hiện sự cao quý, sang trọng, thanh nhã. Với người ẩn dật thì nó còn là biểu tượng của khí tiết thanh cao. Đặc biệt, cúc là loại cây hoa hầu hết được các nhà nho ẩn dật nhắc đến. Trong thơ của Bạch Vân cư sĩ, cúc cũng xuất hiện với nội dung tương tư như vậy:

   “Vun thông, tưới cúc ba thằng mọn,
   Chở lửa, hâm trà một mụ hầu”.
                                                 (Bài 4)

  “Mai bạc lạnh quen nhiều tháng tuyết,
   Cúc vàng thơm đổi mấy phen hoa”.
                                                  (Bài 14)

   Tuy thế, so với Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm ít sử dụng điển cố, điển tích hơn. Hẳn có lẽ điều này phụ thuộc vào thi pháp của từng tác giả nhưng từ phương diện ẩn mà nói, chúng tôi cho rằng thi sĩ am Bạch Vân đã đạt tới trạng thái tâm ẩn.

   Với tư cách của một Nho sĩ ẩn dật điển hình, tiếp thu có chọn lọc truyền thống văn hóa văn học Trung Hoa cũng như truyền thống của ẩn sĩ Việt Nam thời trung đại, xuất phát từ những đặc điểm riêng của thời đại, con đường của nhà Nho Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đi chính là con đường của một kẻ sĩ cao thượng, vốn xuất thân cửa Khổng sân Trình với khát vọng kinh bang tế thế, tiên ưu hậu lạc, song bằng tri thức, bằng những tiên nghiệm tinh tế hiếm có, ông đã nhanh chóng tìm đường quy ẩn. Và nếu như nhiều Nho sĩ khác tìm cách lên núi, đi xa nơi làng quê của mình để lánh xa thế tục (Nguyễn Trãi, Nguyễn Hãng, Nguyễn Dữ, Ngô Thế Lân, Nguyễn Thiếp…) thì Nguyễn Bỉnh Khiêm lại tìm thấy mọi sự thích hợp và thỏa mãn với không gian Trung Am – quê hương của mình. Tại không gian này, những năm tháng ẩn cư đã giúp cho Nguyễn Bỉnh Khiêm thỏa chí, tự do, tiêu du nhàn tản và từ đó xác lập nên một hình thái văn hóa đặc sắc, một hình thái văn hóa mà theo chúng tôi, đến Nguyễn Khuyến ở thế kỷ XIX đã mãi mãi chỉ còn là quá vãng và nỗi niềm bâng khuâng của hậu sinh: văn hóa ẩn dật. Khảo sát qua những sáng tác thơ Nôm của Bạch Vân quốc ngữ thi tập (tập thơ Nôm xuất sắc, giàu giá trị trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật), chúng tôi đã cố gắng minh định và đánh giá những biểu hiện cũng như giá trị của hình thái văn hóa đẹp đẽ này ở nhà Nho Nguyễn Bỉnh Khiêm. So với các ẩn sĩ trước và sau, có thể khẳng định rằng nhà Nho Nguyễn Bỉnh Khiêm đã xác lập được cho mình một lối ẩn riêng, một văn hóa ẩn riêng, một phương thức và cách thức thể hiện riêng, độc đáo, góp phần vào sự phong phú của thơ trữ tình ẩn dật trung đại. Nhìn nhận thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm từ góc nhìn văn hóa ẩn trong tương quan so sánh với các tác giả nhà Nho ẩn dật thời trung đại càng cho thấy sự hiếm có ở ông cần chúng ta tiếp tục đi sâu phân tích hơn nữa. Chúng tôi hi vọng sẽ có dịp trở lại để mở rộng vấn đề này, nhất là có điều kiện tiến hành nghiên cứu so sánh sâu hơn về văn hóa ẩn dật và tư cách cá nhân văn hóa của ẩn sĩ từ Trung Hoa đến Việt Nam nói riêng, từ Trung Hoa đến các nước Đông Á nói chung (gồm thêm cả Hàn Quốc và Nhật Bản) sẽ cho chúng ta có cái nhìn rộng hơn, toàn cảnh hơn về văn hóa ẩn dật của ẩn sĩ khu vực Đông Á.

 

 

 

Tài liệu tham khảo:
1. Trần Đình Hượu (2002), Các bài giảng về tư tưởng phương Đông, Lại Nguyên Ân biên soạn, in lần thứ 2, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
2. B. L. Riptin (1974), “Mấy vấn đề nghiên cứu những nền văn học trung cổ phương Đông theo phương pháp loại hình” (Lê Sơn dịch), Tạp chí Văn học, số 2, tr. 107-123.
3. Nguyễn Kim Sơn (2003), “Góp bàn lý tưởng thẩm mĩ của Đạo gia”, Tạp chí Văn học, số 2, tr. 65-69.
4. Nguyễn Kim Sơn (2003), “Thần hóa, diệu ngộ - quan niệm của Đạo gia về quá trình sáng tạo nghệ thuật”, Tạp chí Văn học, số 10, tr. 70-74.
5. Nguyễn Kim Sơn, “Tâm tính học Nho gia với đặc trưng thẩm mĩ của văn chương nhà Nho”, nguồn: http:// www.vienvanhoc.org.vn/reader/?id=87&menu=107.
6. Bùi Duy Tân (1999), Khảo và luận một số tác gia tác phẩm văn học trung đại Việt Nam, tập 2, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
7. Lã Nhâm Thìn (2000), “Ảnh hưởng Đạo gia trong thơ Nguyễn Trãi”, Tạp chí Văn học, số 6, tr. 69-74.
8. Trần Nho Thìn (2002), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hoá, NXB Giáo dục. 9. Đỗ Lai Thuý (2005), Văn hoá Việt Nam nhìn từ mẫu người văn hoá, NXB Văn hoá Thông tin - Tạp chí Văn hoá nghệ thuật.
10. Lão Tử (2001), Đạo đức kinh (Thu Giang Nguyễn Duy Cần dịch và bình chú), NXB Văn học.
11. Trang Tử (2001), Nam Hoa kinh (Nhượng Tống dịch), NXB Văn học, Trung tâm Văn hoá - Ngôn ngữ Đông Tây.
12. Trần Ngọc Vương (1997), Văn học Việt Nam dòng riêng giữa nguồn chung, NXB Giáo dục; tái bản: năm 1998 (NXB Giáo dục), năm 1999 (NXB Đại học Quốc gia Hà Nội).

Chú thích:
1 Trương Tửu (1944), “Tâm lý và tư tưởng Nguyễn Công Trứ”, Tạp chí Văn mới (xuất bản); in trong Trương Tửu – tuyển tập nghiên cứu phê bình (Nguyễn Hữu Sơn, Trịnh Bá Đĩnh sưu tầm và biên soạn, 2007), NXB Lao động, tr. 621-622.
2 Xin xem các công trình sau:
- Trần Đình Hượu (1991), “Về ảnh hưởng nhiều mặt của Nho giáo trong văn học Việt Nam cổ cận đại”, Tạp chí Văn học, số 3, tr. 18-20.
- Trần Đình Hượu (1996), Đến hiện đại từ truyền thống (in lần thứ hai có bổ sung), NXB Văn hóa.
- Trần Đình Hượu (1998), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, NXB Giáo dục.
3,10 Trần Ngọc Vương (1995), Loại hình học tác giả văn học, nhà nho tài tử và văn học Việt Nam, NXB Giáo dục.
4 Đỗ Lai Thúy(2005), Văn hóa Việt Nam nhìn từ mẫu người văn hóa, NXB Văn hóa thông tin - Tạp chí Văn hóa nghệ thuật.
5 Trần Ngọc Vương (Chủ biên), Nguyễn Kim Sơn, Trần Thị Mỹ Hòa (2007), “Một số phương diện thẩm mĩ của thơ Nho gia và Thiền gia (qua khảo sát một số trường hợp thơ viết về thiên nhiên)”, trong sách Văn học Việt Nam thế kỷ X-XIX – những vấn đề về lý luận và lịch sử, NXB Giáo dục, tr. 348-378.
6 Nguyễn Hữu Sơn (Chủ nhiệm, 2010), Loại hình tác gia văn học trung đại Việt Nam, Đề tài cấp Viện Hàn lâm (cấp Bộ), Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
7 Vũ Thanh (2010), Truyện kỳ ảo trung đại Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Tài liệu lưu giữ tại Phòng Tài liệu Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
8, 9 Lê Văn Tấn (2013), Tác giả nhà nho ẩn dật và văn học trung đại Việt Nam, NXB Khoa học xã hội.
11 Lê Văn Tấn (2015), “Loại hình tác giả nhà nho hành đạo trong văn học trung đại Việt Nam”, Tạp chí Khoa học xã hội, Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ, số 2, tr. 18-40.
12, 14 Đinh Gia Khánh, Hồ Như Sơn, Bùi Duy Tân (Biên soạn, 1983), Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, NXB Văn học. Những trích dẫn thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm trong bài viết, chúng tôi đều lấy từ sách này, xin phép không chú thích nữa trong các trích dẫn tiếp theo.
13 Lê Hữu Nhiệm, Phạm Văn Ánh phiên âm, dịch, chú Bạch Vân am thi tập; Lê Hiệu phiên Nôm Bạch Vân thi tập (2014), Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm tổng tập, NXB Văn học.
15, 16, 19, 20 Đào Duy Anh soạn (1976), Nguyễn Trãi toàn tập (in lần thứ hai, có sửa chữa và bổ sung), NXB Khoa học xã hội, tr. 396, 449, 398, 418.
17 Cù Hựu - Nguyễn Dữ (?), Tiễn đăng tân thoại - Truyền kỳ mạn lục (Trúc Khê Ngô Văn Triện dịch, Trần Thị Băng Thanh giới thiệu, chỉnh lý), NXB Văn học, tr. 305.
18 Xin xem thêm một số bài viết của Trần Nho Thìn:
- Trần Nho Thìn (1986), “Tìm hiểu một số nguyên tắc phản ánh thực tại trong văn học nhà Nho”, Tạp chí Văn học, số 5, tr. 146-154.
- Trần Nho Thìn (1993), “Sáng tác thơ ca thời cổ và sự thể hiện cái tôi tác giả”, Tạp chí Văn học, số 6, tr. 33-36.
- Trần Nho Thìn (1994), “Mối quan hệ giữa cái tôi nhà nho và thực tại trong văn chương thời cổ”, Tạp chí Văn học, số 2, tr. 32-37.
- Trần Nho Thìn (1999), “Phản ánh cuộc sống trong văn chương nhà nho: công thức và sáng tạo”, Tạp chí Văn học, số 11, tr. 55-63.

Bình luận

    Chưa có bình luận